Review Tham Quan Những ngọn tháp cổ kính của dân tộc Lào Tây Bắc Việt Nam 2022
Những ngọn tháp cổ trăm tuổi của người Lào Tọa lạc tại hai tỉnh Sơn La và Điện Biên, trở nên một sự giao thoa văn hóa cổ truyền rực rỡ trên cơ sở của quan hệ lịch sử đặc điểm Việt – Lào ở vùng Tây Bắc.
Giới thiệu Những ngọn tháp cổ kính của dân tộc Lào
Theo các nhà sử học Việt Nam, dân tộc Lào đã có không ít mặt ở Tây Bắc Việt Nam vào lúc thế kỷ XII – XIII. Dân tộc Lào lập bản, dựng mường sinh sống xen kẹt với bản mường của các dân tộc Thái, Khơ Mú, Kháng, La Ha nên có khá nhiều nét văn hóa cổ truyền như nhau. Tuy nhiên, văn hóa cổ truyền cổ truyền của dân tộc Lào còn mang đậm dấu ấn của Phật Giáo, chùa chiền.
Người Lào tại Việt Nam, còn được gọi tên khác là Thay, Thay Duổn, Thay Nguồn, Phủ Thay với hai nhóm bản địa là Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ), cùng nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ Tày – Thái trong họ ngôn ngữ Kra-Dai (Tai-Kadai) – là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Hệ thống các chùa và tháp tại khu vực Tây Bắc gồm: Tháp Mường Và (huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La), tháp Mường Bám (huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La) và 2 tháp Chiềng Sơ, tháp Mường Luân (huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên).
Cục bộ các tòa tháp này là các công trình xây dựng phong cách xây dựng cổ mang đậm nhân tố Phật giáo phái Tiểu Thừa. Chúng đều được xây bằng một loại chất liệu chủ đạo là gạch vồ màu đỏ hoặc nâu, được kết nối cùng với nhau bằng vôi, cát, và mật mía. Những họa tiết hoa văn được gia công bằng vữa đắp nổi, nhiều chỗ gắn thêm vào các hình đất sét bày diễn trang trí. Vào thời điểm đầu tháng hai (âm lịch) hàng năm, người Lào sẽ tổ chức Lễ hội “Xên Mường” và “Khảu hó” tại chân tháp, cuốn hút nhân dân trong vùng tới tham gia.
Tháp Mường Và
Tháp Mường Và thuộc xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La là một công trình xây dựng phong cách xây dựng linh thiêng và cổ kính từ thế kỷ XVII với phong cách xây dựng thẩm mỹ và nghệ thuật độc lạ đặt trên một gò đồi đắp nổi nhân tạo, cao khoảng 15m nếu với mặt bằng bao vây. Điểm đặc điểm là tháp được xây đặc hàng loạt, không còn cửa, phân loại 4 mặt đều nhau, mỗi mặt quay lại 1 phía. Tạo hình theo kiểu bút tháp, cao 13m. Tòa tháp được chia thành 5 tầng, xây bằng gạch vồ có chiều dài là 35cm, rộng 15cm, dày 6 cm.
Tháp được công nhận Di tích Kiến trúc – Nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 95/1998/QĐ-BVHTT ngày 24/1/1998 của Bộ Văn hóa cổ truyền và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa cổ truyền Thể thao và Du lịch).
Khám phá Tháp Mường Và
Niên đại của tháp không được cam kết rõ ràng và cụ thể bởi không còn văn bia khắc ghi. Theo truyền thuyết, cách thức đây khoảng 400 năm có một ông thầy địa lý người Hoa trải qua vùng đất này cảm nhận thấy vị trí đẹp về phong thủy nên đã bàn với Chẩu Hua (người đầu tàu trong vùng) thành lập chùa và tháp. Ngoài ngọn tháp, nền móng ngôi chùa xưa vẫn sống sót ở Mường Và.
Về tổng thể, tháp Mường Và được xây bằng gạch vồ, đặc hàng loạt. Tháp có hình tròn vuông, dạng bút tháp, được chia thành 5 tầng.
Phần tháp chính cao 13m, được bày diễn trang trí hoa văn cực kỳ xinh. Chân móng cao 2,6m, rộng mỗi chiều 9,2m. Tính cả phần chân, tháp có chiều cao 15,6m.
Trước kia, ngọn tháp do các nhà sư người Lào cai trị và dân bản chỉ lên khi đượccho phép. Sau đó, do biến động của lịch sử mà các nhà sư đã rời khỏi đây và ngọn tháp cũng biến thành hoang phế.
Tương truyền, đỉnh tháp từng là điểm đặt một cái lọ đựng nước thơm của nàng Ăm (con gái của lý trường Mường Và) – cứu trừ tà ma và đảm bảo chung cho tất cả dân tộc Lào. Chai nước này đã hết sau lúc bị xảy ra trận động đất năm 1938.
Trong nửa thế kỷ quay lại đây, tháp đã hứng chịu nhiều sự hủy hoại nặng nề. Đây là vào khoảng thời gian 1965, máy bay Mỹ bắn phá đã phá hỏng đỉnh tháp và năm 1983 động đất làm tháp bị nứt dọc, bong tróc mặt phẳng, hỏng nhiều hoa văn.
Sau đợt trùng tu mới gần đây, tháp đã được phục hồi vẻ đẹp vốn có.
Do các lời đồn thổi đại về sự linh thiêng cùng với nhiều câu truyện rùng rợn ảnh hưởng tới tháp Mường Và được đà hệ trước kể lại mà người dân trong vùng rất giảm bớt ghé qua tháp, trừ các dịp đặc điểm.
Dù vậy, ngọn tháp luôn là một điểm tham quan thích thú với du khách phương xa. Từ trên tháp có thề nhìn bối cảnh bản Mường Và cùng các dãy núi trùng điệp, các thửa ruộng trải rộng tới chân trời.
Dưới chân quả đồi địa điểm ngọn tháp tọa lạc có khá nhiều hồ nước rộng, theo lời kể là dấu tích của việc đào đất đắp quả đồi địa điểm dựng tháp.Một quả bom Mỹ từng rơi xuống chân tháp được người dân Mường Và chế thành chiếc kẻng đặt tại đầu bản.
Tháp Mường Bám
Đấy là di tích lịch sử phong cách xây dựng cổ, tọa lạc ở tại chính giữa xã Mường Bám, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Tháp được xây trên một quả đồi thiên tạo có mặt phẳng rộng khoảng 1ha bên bờ suối Nậm Húa (phần đầu nguồn của con sông Mã), gồm 1 quần thể 5 tháp, trong số đó một tháp lớn ở chính giữa và 4 tháp con ở 4 cạnh tháp lớn.
Tháp lớn còn được gọi là Tháp Mẹ, cao 13 m, chia thành 4 tầng. Được bày diễn trang trí chủ đạo hoa văn hình Voi, Hổ và tượng Vũ Nữ nhảy múa, lá đề uốn theo như hình mây, hoa văn hoa cúc, hoa chanh cách thức điệu, chuỗi hoa văn “tràng hạt”, hình “rắn thần” Naga 5 đầu, hình hoa sen cụp xuống,… Cục bộ các hoạ tiết hoa văn đó đều đắp nổi ở bên trên đế thu nhỏ dại dần. Toàn bộ thân tháp trông xa như một búp sen đang hé nở.
Những tháp nhỏ dại, còn được gọi là Tháp Con được chia thành 4 tầng, cao 3,7m tọa lạc cách thức tháp lớn 3 mét với phong cách xây dựng và bày diễn trang trí hoa văn hệt nhau nhau. Chúng được bày diễn trang trí chủ đạo là hoa văn lá đề xen kẹt hình vân mây, dây hoa cúc và hoa đồng xu tiền. 4 cạnh chân tháp được đắp 4 lá đề nổi, lớn ôm gọn 4 góc, phía bên trong có 2 đường chỉ chìm chạy đi đôi. Phần trên ngọn tháp được thu nhỏ dại dần, vút lên nền trời.
Hiện nay, di tích lịch sử còn sót lại một tháp lớn (Tháp Mẹ) và một tháp nhỏ dại (Tháp Con). Ở kề bên tháp lớn còn sống sót pho tượng “chư thần” ngay dưới chân tháp đã bị vỡ (hiện chỉ từ bệ tượng). Ngoài ra, trong công viên xanh ở quanh địa điểm xây tháp còn sót lại vết tích chùa và địa điểm các nhà sư ở.
Tháp Mường Luân
Tương truyền, tháp được những người dân Việt và người Việt gốc Lào chung tay thành lập vào thời Lê. Rõ ràng là vào khoảng thời gian 1569, triều đình Miến Điện đem quân tấn công nước nhà Ai Lao (Lào ngày nay). Vì loạn lạc cuộc chiến tranh, một số trong những cư dân Lào đã di dân sang vùng Tây Bắc của Đại Việt.
Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, các cư dân đó đã ở lại Đại Việt. Để lưu lại nỗi nhớ quê hương bà con người Lào đã với nhau dồn công góp của xây nên tháp Mường Luân cùng với sự trợ giúp của các cư dân địa phương.
Về phong cách xây dựng , tháp Mường Luân có mặt cắt hình vuông vắn, thon dần lên rất cao. Thân tháp cao 15,5 mét, bao vây đắp nổi các hình tiết cách thức điệu gồm chim bay, rồng cuốn, quả trám, cánh sen, lưỡi mác, mặt trời…
Hình tiết rực rỡ nhất của tháp là hình rồng được đắp nổi chạy xung quanh thân tháp, tạo thành các hình số tám kép, đem lại cho tháp vẻ uy nghi y như vẻ đẹp tinh xảo.
Nhìn chung, tháp được tạo hình thướt tha và hài hòa, có bố cục tổng quan vừa ngặt nghèo, vừa choàng lên vẻ thanh thoát bỗng nhiên.Vẻ đẹp của tòa tháp bộc lộ khiếu thẩm mỹ và nghệ thuật của người Lào y như tài thành lập của các cư dân miền núi Tây Bắc từ thời thời xưa.
Từ hàng nghìn năm nay, tháp Mường Luân được nhân dân trong vùng xem là “vị thần hộ mệnh” để đảm bảo cuộc đời cho dân bản, phù trợ con người có sức mạnh và mùa màng bội thu…
Tiếc rằng, biến thiên của lịch sử khiến tháp Mường Luân đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Toàn bộ ngọn tháp nghiêng hẳn về phía Đông Bắc, dưới chân tháp nhiều chỗ bị xói lở. Phương thức đây chừng 50 năm, phía ở bên phải tòa tháp còn tồn tại 1 ngôi chùa với nhiều pho tượng quý, nhưng bây giờ đều đã hết.
Điểm đặt xa xôi hẻo lánh cũng khiến tháp Mường Luân số đông chưa được khách tham quan nghe biết. Từ TP Điện Biên, để tới được tháp phải vượt gần 100km, trong số đó non nửa là đường đèo dốc hiểm trở, lồi lõm sỏi đá, dân cư thưa thớt…
Hai tháp “đực – cái” ở Điện Biên Đông
Bảo tháp ở bản Mường Luân I (bản người Lào), xã Mường Luân có 4 cạnh, nhân dân bản địa gọi đây là tháp đực; ngọn tháp thứ hai ở bản Nà Muông (bản người Thái), xã Chiềng Sơ có 8 cạnh, nhân dân gọi đây là tháp cái. Hai ngọn tháp có cùng niên đại nhưng tọa lạc ở cả hai địa phận khác biệt, hai dân tộc khác biệt nên sự sống sót và đặc biệt ý nghĩa của tháp cũng khác biệt. Hai tháp Mường Luân và Chiềng Sơ đều ở Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên (Tây Bắc Việt Nam).
Với tháp Mường Luân, nhân dân biết khá nhiều về sự tích y như còn giữ gìn được tập tục cúng tháp. Còn tháp Chiềng Sơ thì ít người biết hơn và đã không mấy ai hiểu về sự tích của ngọn tháp này. Tháp Chiềng Sơ được thành lập vào lúc thế kỷ XV – XVI, tháp được tạo hình phong cách xây dựng giống nậm rượu, dưới lớn và phần bên trên nhỏ dại dần. Tháp cao 10,5 mét, 4 mặt bao vây chân tháp được để tượng 2 chú voi ở đằng trước và 2 chú chó ở đằng sau.
Phần thân tháp được bày diễn trang trí các hình tiết hoa văn, đặc điểm là một tòa sen có 6 lớp chồng lên nhau đội lấy tòa tháp cùng với các đường nét hoa văn chìm nổi cách thức điệu hình chim muông, hoa lá theo bố cục tổng quan từng phần rất hài hòa. Tính chất hơn hết là các con rồng được đắp nổi uốn mình quanh thân tháp, đầu và đuôi rồng chụm vào nhau tạo thành hình số 8.
Những hệ thống chùa, tháp ở Tây Bắc không riêng gì có giá thành văn hóa cổ truyền, đóng góp phần làm nhiều mẫu mã thêm kho báu di sản văn hoá dân tộc mà còn sống sót giá thành lịch sử lớn lớn. Bởi, các di tích lịch sử này đã hỗ trợ các nhà nghiên cứu tìm ra và định vị được lịch sử về tình đoàn kết gắn bó lâu năm giữa 2 dân tộc bằng hữu Việt – Lào.
Theo số liệu Tổng điều tra dân số và căn hộ chung cư Việt Nam năm 2009, người Lào có tầm khoảng 14.100 người (chiếm 0,0174% dân số cả nước). Người Lào cư trú triệu tập tại các tỉnh: Lai Châu: 6.824 người, chiếm 38,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Điện Biên (4.564 người, chiếm 30,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Sơn La (3.380 người, chiếm 22,6% tổng số người Lào tại Việt Nam và chiếm 0,3% số dân của tỉnh này), Hà Tĩnh (433 người), Đắk Lắk (275 người).
Tháp Chiềng Sơ
Phương thức tháp Mường Luân khoảng 10km về hướng Đông có một ngọn tháp khác của người dân tộc Lào, được đánh giá và thẩm định là còn nguyên vẹn hơn. Đây là tháp Chiềng Sơ ở bản Nà Muông, xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.
Khác với tháp Mường Luân, lịch sử của ngọn tháp ở Chiềng Sơ là không rõ ràng và cụ thể. Khi người dân tộc Thái tới đây định canh vào khoảng thời gian 1937 đã nhận thức thấy tháp bị bỏ phí.
Dù không còn một tư liệu lịch sử rõ ràng và cụ thể nào định vị niên đại khởi dựng của tháp, nhưng công dụng của các nhà nghiên cứu đã cho chúng ta biết tháp được thành lập vào lúc thế kỷ 15-16, cùng niên đại với tháp Mường Luân.
Về tổng thể, tháp cao 10,5 mét, được thành lập bằng gạch và vôi vữa mật, nhỏ dại dần từ dưới lên trên. Bố cục tổng quan phong cách xây dựng và các hình tiết bày diễn trang trí trên thân tháp có khá nhiều nét như nhau với tháp Mường Luân, với các tấm hình chim muông, hoa lá cách thức điệu.
Tính chất là biểu tượng rồng lại có mặt, với các con rồng được đắp nổi uốn mình quanh thân tháp, đầu và đuôi rồng chụm vào nhau tạo thành hình số tám. Những con rồng này mang trên mình lớp vảy đặc thù, rất khác phong cách thức bộc lộ rồng cổ truyền của người Việt.
Cục bộ các hình tiết hoa văn được bố trí hài hòa quanh thân tháp nhằm mục đích tạo điểm vượt trội và đề cao vẻ đẹp của tháp, tạo sức thích thú và cuốn hút người xem khi chiêm ngưỡng di tích lịch sử phong cách xây dựng thẩm mỹ và nghệ thuật này.
Phần đỉnh tháp được bày diễn trang trí giống thân tháp, chỉ khác về kích thước được thu nhỏ dại để khởi tạo nên vẻ đẹp thướt tha và thanh tú của tháp.
Quanh chân tháp từng có tượng 2 con voi ở cả hai góc phần bên trước mặt tháp và 2 góc phía đằng sau đặt 2 con chó, toàn bộ đều được bố trí đầu quay lại phần bên trước của tháp. Những tượng phật này bây giờ đã đổ vỡ và tọa lạc bên chân tháp.
Mặt trước của tháp còn tồn tại 1 bệ đài, dù đã hết nguyên vẹn nhưng vẫn bộc lộ được các đường nét bày diễn trang trí tinh xảo.
Y tựa như tháp Mường Luân, cạnh tháp Chiềng Sơ từng có một ngôi chùa, giờ đã hết nữa.
Chuyên Mục: Review Điện Biên
Nguồn Blog Review Du Lịch: https://bietthungoctrai.vn/ Những ngọn tháp cổ kính của dân tộc Lào ở Tây Bắc Việt Nam