Review Di tích Lăng Hoàng Gia Gò Công Tiền Giang,Ở Đâu,Kiến Trúc,Chi Tiết Từ A-Z 2022
Lăng Hoàng Gia ở chỗ nào?
Di tích Lăng Hoàng Gia Tiền Giang tọa lạc tại Giồng Sơn Quy (Gò Rùa), ngày nay thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Lăng mộ là một công trình xây dựng bản vẽ xây dựng mang đậm phong cách thức cung đình Huế, uy nghi giữa một vùng cây trái đồng bằng trung du. Ngoài bản vẽ xây dựng khác biệt, di tích còn ẩn chứa bao câu truyện ly kì.
Lăng Hoàng gia là Vị trí thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong số đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ (dân gian gọi Từ Dũ), vk vua Thiệu Trị.
Giới thiệu về Lăng Hoàng Gia Tiền Giang
Lăng Hoàng Gia là Vị trí yên nghỉ, Vị trí thờ tự và lăng mộ của rất nhiều người quá cố là dòng họ Phạm Đăng nhiều người biết đến, Lăng Hoàng Gia nói một cách khác là “Thích Lý” theo có nghĩa là bà con hoàng đế.
Lăng Hoàng Gia được thành lập từ thời điểm năm 1826, là Vị trí yên nghỉ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng (Ông ngoại vua Tự Đức và là thân sinh của Từ Dũ Thái Hậu – vk Vua Thiệu Trị) – con người anh tú là dòng họ Phạm Đăng vào thế kỉ 18 – 19.
Địa điểm đây đã có khá nhiều rất đa số chúng ta nhiều người biết đến đến viếng: vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu.
Ngày 02 tháng 12 năm 1992, Bộ Văn hóa truyền thống cổ truyền – Thông tin (nay là Bộ văn hóa truyền thống cổ truyền, Thể thao và Du lịch công nhận di tích Lăng Hoàng Gia là di tích cấp Quốc gia theo đưa ra quyết định số: 3959 QĐ/ BT.
Kiến Trúc Lăng Hoàng Gia Tiền Giang
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình xây dựng bản vẽ xây dựng thẩm mỹ và nghệ thuật thời Nguyễn mang đậm phong cách thức truyền thống cổ truyền dân tộc qua các mảng chạm khắc trên mộ và bày diễn trang trí phía trong thánh địa bằng các điển tích đúc kết từ “tứ linh, tứ quý” theo ý niệm phong thủy của rất nhiều người Á Đông. Toàn bộ khu lăng mộ tọa lạc trọn trong công viên xanh thoáng mát, có rất nhiều sứ đại cổ thụ, hoa lá cảnh vật bảo phủ theo kiểu khoảng trống nhà vườn xứ Huế.
Lăng không thực sự đồ sộ nhưng cũng không thực sự uy nghiêm như các lăng mộ của rất nhiều quan đại thần khác. Nhiều người tới thăm lăng đều kinh ngạc khi cảm thấy bản vẽ xây dựng của lăng phần nào giống bản vẽ xây dựng của căn hộ chung cư. Chính điều đó đã tạo cảm giác thân mật và gần gũi và đầm ấm.
Cổng vào được xây theo lối tam quan cách thức điệu, trên mái lợp ngói lưu ly, đỉnh chạm trổ tượng mang bức ảnh “lý ngư vọng nguyệt” (con cá chép trông trăng) biểu thị cho sự thanh cao của người chủ.
Nhà từ đường có mười trụ cột ở chính giữa, lớn nhất được thiết kế với thành hai hàng đi đôi như các đôi bàn tay khổng lồ vươn lên chống đỡ hàng loạt lăng. Những đường hoành, rui, mè đều được thiết kế với rất chi là tinh tế và sắc sảo, khác biệt, vững bền bởi các loại gỗ quý được luân chuyển từ cố đô Huế vào. Có lẽ rằng thế cho nên mà theo thời hạn các cây cột càng ngày càng cũng trở thành bóng đẹp và cổ kính hơn.
Điểm nổi bật nhất của lăng có lẽ rằng là sự áp dụng tuyệt vời chất liệu gỗ để thành lập, đã không còn nào tìm ra được 1 cây đinh nào trong việc kết nối các các thanh gỗ, kèo, cột ở chỗ này. Cục bộ đều được đục mộng tra vào nhau một cách thức tinh xảo tới tuyệt đối hoàn hảo. Người xem khâm phục biết bao bàn tay và thẩm mỹ và nghệ thuật thành lập y hệt như bản vẽ xây dựng của rất nhiều nghệ nhân xưa.
Trong thánh địa có đặt nhiều biển đại tự để thờ: Gian ở chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng; gian tả thờ ông Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng; gian tả ngoài cùng thờ ông Phạm Đăng Tiên (cố); gian hữu thờ ông Phạm Đăng Dinh (nội); hai cuối bên hữu thờ ông Phạm Đăng Khoa (sơ).
Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có mẫu mã mai rùa. Mộ không xây theo kiểu “ngưu phanh, mã phục” mà được xây theo mẫu mã “đỉnh trụ” hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen.Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. “Ngũ đại thành xương – Tường lân ống hiện” (Năm đời danh giá thấp đẹp – Điềm tốt kỳ lân bỏ ra).
Vòng quanh mộ ông Phạm Đăng Hưng có một số trong những phù điêu bày diễn trang trí như búp sen, cá hóa long… lại mang phong cách thức điêu khắc phương Tây. Những bức phù điêu bày diễn trang trí trên mộ được thành lập thêm vào thời vua Khải Định.Có lẽ rằng ông Vua Khải Định đã có khá nhiều một “support viên” người phương Tây nào chăng?
Cùng tọa lạc trên công viên xanh Lăng còn sinh tồn hệ thống mộ dòng họ Phạm Đăng được chôn theo một trục dài, hàng loạt đều làm bằng hồ ô dước, bảo phủ chung quanh bằng một lớp tường dày và cao 90cm, các ngôi mộ tổ bố cục tổng quan đơn giản dễ dàng theo hình vuông vắn hoặc chử nhật).
Tham quan Lăng Hoàng Gia Tiền Giang có gì?
Giếng ngọc ở Lăng Hoàng Gia Tiền Giang
Vào vào cuối thế kỷ thứ 16 ông Phạm Đăng Long (cha ông Phạm Đăng Hưng) theo cha từ Quảng Ngãi vào vùng Gò Công, là người giỏi Nho học, tinh thông phong thủy, địa lý của Lão học, đi nhiều Vị trí tìm thế đất rất tốt để an cư, mong con cái phát tích. Lúc ông tới Gò Rùa (Sơn Qui), cảm thấy thế đất cực kỳ xinh nhưng toàn vùng Gò Công hiện nay không có những nơi đâu đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát bỏ ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Quy nên tuy tụ mồ mả 3 đời về đây và xây căn hộ chung cư gò đất này.
Hiện nay, tại lăng Hoàng Gia, phía đằng sau thánh địa, Vị trí nền nhà xưa vẫn còn cái giếng cổ, nước trong vắt và ngọt lịm. Đến thời điểm này vẫn chưa ai cam đoan đúng chuẩn mực giếng nước đó được đào từ thời điểm năm nào, chỉ biết rằng nó được cho là báo hiệu của một điềm tốt, nối liền với dòng họ hoàng tộc nổi tiếng Phạm Đăng.
Có điều lạ là tới mùa khô, các giếng khác bao gồm ao làng sâu 10 mét đều cạn hết, riêng giếng này sẽ không sâu nhưng ngay mạch nước nên nước bao giờ cũng tồn tại. Ngày xưa, cư dân ở xã Long Hưng đều sử dụng nhờ giếng nước này. Điều lạ nữa là khi Hoàng Thái hậu Từ Dụ được sinh ra, nước ở giếng này càng ngọt hơn.
Ly kỳ tấm bia ngự ban Lăng Hoàng Gia Tiền Giang
Tới thăm mộ ông Phạm Đăng Hưng, từ ngoài lấn sân vào, du khách sẽ bắt gặp bên trái có một nhà bia. Dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam, đã mòn theo thời hạn, nhưng thật kỳ lạ: phía bên trên có hình cây thánh giá màu đen, dưới thuộc dòng chữ Pháp ghi “Đấy là Vị trí an nghỉ của Trung úy Barbé”. Nhìn sâu vào trong là một bài văn bia dày đặc chữ Hán?
Bia đá này do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào khoảng thời gian Tự Đức thứ 10 (1857) nhằm mục tiêu mệnh danh công đức của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng. Vua Tự Đức sai chở bằng thuyền từ Huế vô Gò Công. Nhưng cái bia đá mất tích một cách thức kín đáo. Tới lúc trùng tu lăng Hoàng gia, năm 1899, vua Thành Thái cho dựng nhà bia ở phía bên phải (từ ngoài nhìn vào) bằng đá hoa cương. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia Tự Đức ban cho ông ngoại.
Chuyện kể rằng, lúc giải tỏa nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (quận 1- TP Hồ Chí Minh) để thành lập Công viên Lê Văn Tám (khoảng 1983- 1986), người ta cảm thấy sót lại 1 tấm bia đá bỏ chỏng chơ. Có một số người bắt gặp hàng chữ Nho sau hàng chữ Pháp mới báo với Kho lưu trữ bảo tàng Thành phố. Khi các nhà nghiên cứu giám định mới té ngửa là tấm bia ấy là của vua Tự Đức ban khuyến mãi cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng. Trong tác phẩm “Scènes de la vie Annamite” (NXB P.Ollendorff Paris 1884) của 2 người sáng tác Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện tình éo le của viên Trung úy Barbé với cô nàng Bến Nghé tên Thị Ba, người của nghĩa quân Trương Định.
Cô nàng hẹn Trung úy Barbé ở đồn chùa Khải Tường (nay là Kho lưu trữ bảo tàng Phương pháp mạng) tới đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares – Thị Nghè) vào tối 7/12/1860. Trên lối đi, Barbé đã bị nghĩa quân Trương Định phục kích đột xuất giết chết. Câu truyện tình này đời nay được tái hiện trong vở cải lương nhiều người biết đến ở Nam Bộ có tên “Nàng Hai Bến Nghé” với diễn xuất kĩ năng của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu.
Liên kết các event, chính Barbé cướp tấm bia vào khoảng thời gian 1858 về đồn và hai năm sau y chết, người ta lấy tấm bia ấy làm bia mộ cho y. Tới khi nghĩa địa giải tỏa mới phát bỏ ra và năm 1998, Kho lưu trữ bảo tàng TP Hồ Chí Minh mới khuyến mãi lại Khu di tích Lăng Hoàng gia. Đúng 140 năm sau tấm bia mới được đặt đúng nơi đặt của chính bản thân nó. Nhìn tấm bia hàng chữ Pháp trên nền chữ Hán, du khách người nào cũng câu hỏi. Ngờ đâu, trong đây chính là một chuyện sử ly kỳ như tiểu thuyết.
Đối lập tấm bia này, phía bên tay phải, có thêm 1 tấm bia khác, bằng đá hoa cương, do Vua Thành Thái ngự ban vào khoảng thời gian 1899 sau lúc tấm bia đầu tiên bị chiếm đoạt, nội dung không khác biệt là mấy.Rất có khả năng nói chính là một quần thể bản vẽ xây dựng xưa và lạ, bởi chính là Vị trí yên nghỉ của dòng họ làm quan nhiều đời và là họ ngoại của vua Nguyễn. Khách du lịch Tiền Giang, tới đây rất có thể tìm cảm thấy được các di tích của một tiến trình lịch sử đã qua ẩn hiện Vị trí gì đấy trong từng phần của khu lăng mộ.
Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng Lăng Hoàng Gia Tiền Giang
Phạm Đăng Hưng là con thứ ba của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy vào khoảng thời gian 1764. Ông là người mưu trí, văn võ song toàn đã có thời điểm từng làm quan Thượng thư dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau này được thăng Lại bộ Tham tri. Tới năm 1824 được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, năm 1825 ông được giao phó giữ kinh thành Huế. Nhân dân thường gọi là Phạm Đăng Hưng là ông “Ba Bị” vì lúc làm “Điền tuấn quan” đi đâu ông cũng đưa theo ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho nông dân nghèo các khi thiên tai, hạn hán, bão lụt.
Vua Minh Mạng rất khâm phục tài đức của Phạm Đăng Hưng nên đã kết thành thông gia hai lần với ông: gả công chúa cho Phạm Đăng Thuật (thiếu niên Phạm Đăng Hưng) và phong tước Phò mã đô úy; cho thái tử Miên Tông (vua Thiệu Trị) kết duyên với con gái ông Phạm Đăng Hưng là Phạm Thị Hằng (bà Từ Dũ).
Năm 1825, Phạm Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm “Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, đại học sĩ, thụy trung nhã” và đưa về an táng tại Sơn Quy.1 năm sau lúc Phạm Đăng Hưng mất tức năm 1826, triều đình nhà Nguyễn cho thành lập thánh địa và lăng mộ ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng. Khu lăng mô được xây theo bản vẽ xây dựng phong thuỷ giành cho lăng tẩm vua quan hiện nay.
Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc Công đã cho trùng tu, lan rộng thánh địa, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình.Vào khoảng thời gian 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Tới năm Khải Định 1921, trùng tu một lần tiếp nữa mang nét Á – Âu phối hợp và được lưu giữ cho tới ngày nay.
Clip review Lăng Hoàng Gia Tiền Giang
Chuyên Mục: Review Tiền Giang
Nguồn Blog Review Du Lịch: https://bietthungoctrai.vn/ Di tích Lăng mộ Hoàng Gia ở Gò Công tỉnh Tiền Giang