Review Làng nghề chạm bạc Huệ Lai Hậu Giang ở đâu,lịch sử,sản phẩm 2021
Làng nghề chạm bạc Huệ Lai ở đâu?
Làng nghề chạm khắc bạc Huệ Lai thuộc làng Phù Ủng, huyện Hưng Yên. Ở chỗ này không riêng gì nhiều người biết đến với các dự án công trình phong cách xây dựng uy nghi, mà du khách tới thăm còn được tham gia trải nghiệm các các bước làm ra các sản phẩm trang sức quý rất chi là độc lạ và tinh xảo.
Di chuyển tới Làng nghề chạm bạc Huệ Lai
Phù Ủng là một làng cổ thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, tọa lạc ở hướng bắc của mảnh đất nền ngàn năm văn hiến. Làng Phù Ủng tọa lạc ở ngã 3 đường về Hưng Yên, Thành Phố Hải Dương và đại lộ 5A. Hướng tiếp cận xã Phù Ủng từ giữa trung tâm thành phố thủ đô Hà Nội rất có khả năng dịch rời theo 3 con phố căn bản:
Hướng trước tiên từ thủ đô Hà Nội đi Phố Nối 14 km qua Thị trấn Ân Thi rẽ trái đi thêm 8 km; Hướng thứ hai từ giữa trung tâm Thị xã Hưng Yên ngược đường 39A về Trương Xá (Kim Động) rẽ phải đi 4 km qua Thị trấn Ân Thi đi thêm 8 km; Và hướng thứ ba từ đại lộ 5A tới Quán Gỏi (Thành Phố Hải Dương) đi tiếp 3 km.
Lịch sử nâng tầm phát triển làng Phù Ủng
Theo các dữ liệu thư tịch cổ, bia ký, sắc phong, tục lệ, địa bạ và các dữ liệu lịch sử ảnh hưởng thì Phù Ủng xưa là một thôn lớn cầm đầu hàng xã, hàng tổng. Với điểm đặt địa lý quan trọng, từ lâu trong lịch sử, Phù Ủng đã là vùng đất mua bán kinh doanh sôi động, trung chuyển văn hoá giữa các vùng miền.
Lịch sử Đảng bộ huyện Ân Thi tập 1 (1930 – 1954) có viết: “Quá trình dựng nước và giữ nước, các dân cư ở đây đã khai thác đất đai tạo hình thành quê hương giàu xinh đẹp như ngày nay. Thời truyền thống, mảnh đất nền đây là đất của Lạc Long Quân, thời Bắc thuộc mảnh đất nền này thuộc quận Giao Chỉ, Giao Châu, Đằng Châu…”. Những tên làng của huyện Ân Thi còn tới ngày nay như: Chu xá, Đào xá, Ngô xá, Lưu xá, Đỗ xá, Lã xá, Đặng xá, An Trạch… cũng đã cho chúng ta biết Ân Thi là mảnh đất nền có lịch sử – văn hóa truyền thống cổ truyền lâu năm.
“Phù Ủng là một làng quê cổ của vùng đất Ân Thi, Hưng Yên. Địa thế căn cứ vào thần tích các làng, xã đã cho chúng ta biết từ thời Hùng Vương, người dân vùng đó đã khá đông đúc, là Vị trí phân phối lực lượng lao động và vật lực cho các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và cuộc chiến tranh bộ tộc” .
Ngày nay, làng Phù Ủng thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Tên làng Phù Ủng từ khi được thành lập đến thời điểm này không chuyển đổi, còn tên xã Phù Ủng, từ sau Phương pháp mạng Tháng Tám 1945 đến thời điểm này đã có nhiều quá nhiều lần chuyển đổi để thích hợp với việc chủ tịch hành chính bản địa. Năm 1945, xã Phù Ủng đổi thành xã Thành Thái. Năm 1947, xã Thành Thái đổi thành xã Hoàng Hữu Nam. Năm 1954, xã Hoàng Hữu Nam đổi thành xã Đô Lương.
Năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra ra quyết định số 344/NQ-TVQH hợp nhất 2 Tỉnh Thành Phố Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, cùng theo đó hợp nhất 10 huyện và thị xã của Hưng Yên thành 4 huyện và 1 thị xã của tỉnh Hải Hưng, huyện Ân Thi và Kim Động của Hưng Yên được hợp nhất thành huyện Kim Thi của tỉnh Hải Hưng (1979).
Và trong thời hạn này, xã Đô Lương đổi thành xã Phù Ủng, huyện Kim Thi, tỉnh Hải Hưng. Tới năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập. Nhằm hoàn chỉnh các cơ quan hành chính và theo ý kiến đề xuất của cộng đồng nhân dân tỉnh, ngày 27/1/1996, Chính phủ ra ra quyết định số 05/CP tách huyện Kim Thi thành hai huyện: Ân Thi và Kim Động. theo đó cho đến bây giờ làng Phù Ủng thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Khởi sắc của làng nghề Huệ Lai sau lúc có nghề vàng bạc
Trước đây thôn Huệ Lai có 95% dân sinh sống chủ đạo bằng nghề nông nghiệp, cuộc sống nhân dân gặp nhiều khó khan. Song thì khi có sự nâng tầm phát triển của nghề trạm vàng bạc, cư dân đã thêm nghề phụ, cải tiến nguồn thu, nâng tầm phát triển kinh tế. Tay nghề của các người thợ cũng được cải tiến rõ ràng, các sản phẩm dần có độ tinh xảo không chuyển biến.
Nổi bật của nghề kim hoàn rất hà khắc, bởi nghề này không riêng gì đòi hỏi sự cần mẫn cần mẫn mà con đòi hỏi đôi bàn tay tài hoa khéo léo, óc sáng tạo để trổ các hoa văn, hình tiết trên các sản phẩm vàng bạc.
Trang sức đến từ làng nghề vàng bạc nhiều người biết đến Huệ Lai.
Như ông Pham Xuân Đinh 69 tuổi, đã có nhiều 21 năm trong nghề tâm sự” “ Muốn biến thành một người thợ kim hoàn giỏi, chế tác được các hàng hóa theo có nhu cầu của khách trước hết thì người thợ phải có năng khiến, cần mẫn và sáng tạo mới gắn bó được lâu hơn với nghề”.
Tổ chức cơ cấu làng, xã, thôn Làng nghề chạm bạc Huệ Lai
Xã Phù Ủng hôm nay có 8 thôn, bao gồm: thôn Phù Ủng, thôn Huệ Lai, thôn Sa Lung, thôn Phương La, thôn La Mát, thôn Đồng Mái, thôn Hồng Lương và thôn Kim Lũ.
Trong các năm qua, cùng với sự gây được sự chú ý chỉ huy của Huyện Ủy – HĐND – UBND huyện Ân Thi và các ban ngành của huyện, sự chỉ huy của Đảng Ủy, sự giám sát của HĐND, sự điều hành của UBND và sự phấn đấu của cán bộ và nhân dân, tình hình kinh tế và trái đất chung của xã nâng tầm phát triển khá nhanh với nhiều thành tựu.
Văn hóa truyền thống cổ truyền truyền thống cổ truyền làng nghề Huệ Lai – Phù Ủng
Lịch sử nâng tầm phát triển nghề truyền thống cổ truyền
Theo điều tra, chạm bạc không hẳn nghề gốc của làng nghề Huệ Lai. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ trước, một vài đứa con của Huệ Lai sang học nghề chế tác vàng bạc tại làng Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Thành Phố Hải Dương và mang nghề về làng. theo đó cư dân Huệ Lai nghe biết cái nghề cần sự tỉ mỉ, cần mẫn và đôi bàn tay khéo léo này.
Được dựng nên từ thời điểm năm 1992, các ngày đầu, nghề chạm bạc chỉ lôi cuốn được vài chục hộ ký dánh. Năm 1998, hợp tác xã vàng bạc Phù Ủng được thành lập do ông Đỗ Xuân Chuyển làm chủ nhiệm nhằm mục tiêu link các nghệ nhân và người làm nghề lại cùng nhau.
Sau một khoảng thời gian bản lĩnh gắn bó, cùng nhau nâng tầm phát triển và có được các thành tựu không chuyển biến, năm 2003, thôn Huệ Lai, xã Phù Ủng được Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên công nhận là làng nghề. Sản phẩm chạm bạc của hợp tác xã đã được cục Công nghiệp bản địa, bộ Công thương reviews là 1 trong các các sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu của vị trí phía Bắc năm 2014.
Tuổi nghề của làng Huệ Lai đến thời điểm này đã được gần 30 năm. Hiện có trên 200 hộ hộ dân cư với trên 1000 lao động ký dánh. Có các thời kì, nghề chạm bạc công việc làm ăn phức tạp, sa sút, không ít hộ bỏ nghề. Tuy nhiên được sự giúp sức của huyện Ân Thi, các ủy và chính quyền sở tại xã Phù Ủng đã tiến hành đề án nâng tầm phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hàng năm mở lớp giảng dạy nghề chạm bạc, lôi cuốn nhiều người trẻ tuổi tại bản địa tới học nghề, mở xưởng chế tạo, tạo nên các sản phẩm có chất lượng.
Đề án nâng tầm phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở xã Phù Ủng phát huy tác dụng đã tạo trường hợp cho làng nghề chạm bạc thôn Huệ Lai phục hồi và nâng tầm phát triển. Với việc nhậy bén, bàn tay khéo léo, bản lĩnh cần mẫn, kiên trì của các nghệ nhân ở thôn Huệ Lai đã sáng tạo nên nhiều mẫu sản phẩm phong phú, mớ lạ và độc đáo, đáp ứng nhu cầu có nhu cầu của thị trường, đóng góp phần cũng trở thành chính hiệu của làng nghề chạm bạc Huệ Lai.
Những loại sản phẩm truyền thống cổ truyền
Là một làng nông nghiệp truyền thống cổ truyền, những người dân nông dân ở đây đã bao đời gắn bó với cây lúa và đồng ruộng. Từ thời xưa, cư dân Phù Ủng chủ đạo sống bằng nghề làm ruộng, 1 năm hai vụ chiêm, mùa. Đề phòng các khi chiêm khê mùa thối, cư dân làng Phù Ủng còn trồng thêm các loại rau xanh và hoa màu như ngô khoai.
Kinh tế thuần nông ở Phù Ủng luôn luôn luôn được tăng mạnh bằng sức lao động cơ bắp của con người, sức kéo của gia súc (trâu bò). Cho nên tư tưởng của các cư dân Phù Ủng kể riêng cũng tương tự của dân cư nông nghiệp kết luận là “đông con đông của”, “con trâu là đầu tư mạnh nghiệp”, dần dần trong quy trình lao động chế tạo, cư dân đã đúc kết được kinh nghiệm thâm canh, kinh nghiệm trồng trọt qua các câu ca dao tục ngữ, phổ biến trong dân gian và dễ thuộc:
“Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn”
Hoặc:
“Sâu cấy lúa, cạn gieo bông
Chẳng ươm được đỗ thì trông khoai ngô”
Đây đây là một cách thức chế tạo chung cho tất từ đầu đến chân dân làm và sống bằng nghề nông nghiệp. Sự gắn bó “một nắng hai sương” với đồng ruộng từ bao đời nay đã đem lại cho cư dân Phù Ủng các kiến thức kinh nghiệm canh tác lúa nước từ khâu thiết yếu nhất của quy trình chế tạo như “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” tới kinh nghiệm luân canh, xen canh giữa lúa và hoa màu.
Ngoài nghề nông chủ yếu, trước đó làng còn sinh tồn nhiều nghề phụ như đan sọt, vận thừng, đan chổi, chạm bạc… làm kinh tế phụ lúc nông nhàn. Hiện nay, trong khu di tích lịch sử đền Phù Ủng vẫn còn mô Quả thừng, tương truyền là dấu tích khi xưa thuở còn hàn vi Phạm Ngũ Lão thường ngồi xếp bằng tròn kề bên đường cái quan chẻ tre đan sọt. Phù Ủng nhiều người biết đến với đặc sản nổi tiếng “Gạo Đồng Đỗ – nước giếng Đình – cá rô Đầm Sét – nước mắm Vạn Vân”.
Những loại sản phẩm thừa kế, mới
Từ khi triển khai công cuộc thay mới của Đảng, cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong làng được thổi lên rõ ràng. Trong làng đã không còn diện tích hoang hóa, hàng loạt diện tích canh tác đều được cơ giới hóa như máy cày, máy tuốt lúa. Hệ thống tưới tiêu thuận lợi, triển khai vừa đủ quá trình kĩ thuật thâm canh thời vụ, dự báo, dự thính phòng trừ sâu bệnh.
Nhân dân trong làng có các hình thức hợp tác xã trong nâng tầm phát triển kinh tế. Đoàn kết bổ trợ nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng thông qua vận động và di chuyển tổ chức cơ cấu cây cối, vật nuôi và nâng tầm phát triển nghề phụ (Thương mại dịch vụ đáp ứng chế tạo tiêu áp dụng, nghề mộc, nghề nề… ) khích lệ việc chăn nuôi gia súc, gia cầm nâng tầm phát triển kinh tế và nuôi cá tận dụng diện tích mặt nước ngọt (ao, hồ, sông ngòi..) rộng lớn.
Nhờ sự nâng tầm phát triển kinh tế, Phù Ủng đã có lúc từng bước thành lập được cơ sở vật chất cho vận động văn hóa truyền thống cổ truyền thông tin, thể dục thể thao nhằm mục tiêu chuyển đổi bộ mặt nông thôn, mỗi bước cải tiến cuộc sống tinh thần cho nhân dân.
Từ một làng với 95% dân sinh chủ đạo làm nông, sau lúc nghề chạm bạc được mang từ làng Châu Khê – Thành Phố Hải Dương về, tổ chức cơ cấu convert từ nông nghiệp sang thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã dần được phát huy, đưa đến cơ hội nghề nghiệp cho rất đa số chúng ta dân trong làng.
Trải qua hơn 20 năm bảo trì và nâng tầm phát triển nghề chạm bạc, từ một làng nghề với tay nghề còn non, con số người ký dánh còn ít và mô hình còn bé dại lẻ, Huệ Lai đến thời điểm này đã biến thành một làng nghề chạm bạc với mô hình khá lớn với đáng tin cậy và chất lượng vươn xa tới các tỉnh thành cả trong và ngoài nước, đem lại mức nguồn thu không chuyển biến cho cư dân trong làng, đóng góp phần nâng tầm phát triển kinh tế hộ hộ dân cư và kinh tế của xã tăng thêm đáng kể.
Quá trình chế tạo các sản phẩm truyền thống cổ truyền
Giai đoạn 1: Chuẩn bị chất liệu
Bạc được chuẩn bị sẵn, phân chia và kiểm tra kĩ càng để không lẫn tạp chất, bảo đảm 100% bạc nguyên chất.
Sau khi có nguyên vật liệu, bạc được dẫn vào khuôn để chuẩn bị cho các quá trình kế đến.
Giai đoạn 2: Giải quyết chất liệu
Trong nghề chế tác trang sức quý bạc đòi hỏi ở người thợ rất cần phải có sự bản lĩnh cùng nhẫn nại trong từng các bước mới rất có khả năng cho ra các sản phẩm đẹp và tinh xảo. Một thành phẩm đẹp và ưng ý với người sử dụng bắt buộc phải thông qua 4 quá trình:
- Trước tiên là tạo mẫu – quá trình quan trọng nhất. Ở trong phần này các ý tưởng phát minh sơ khai nhất về một mẫu trang sức quý mới để được dựng nên.
- Tiếp theo người thợ sẽ khởi tạo mẫu sáp hưu, khi làm nhẫn thì mẫu nhẫn để được xuất ra và được khắc trên sáp cứng. Những khuôn sáp này rất có khả năng có màu xanh ngọc hoặc xanh cây lá sậm màu, được gia công thủ công thủ công bằng tay hoặc máy.
- Tiếp theo là các bước cắm cây thông – bơm sáp đổ thạch cao, đun chảy kim loại, đổ khuôn và cắt cây thông ra khỏi sản phẩm thô, hoàn thành, gắn đá và đánh bóng sản phẩm.
- Cuối cùng là kiểm tra chất lượng sản phẩm. Chính là các bước quan trọng, bảo đảm độ đúng cách dán và tay nghề chế tác hoàn hảo và tuyệt vời nhất. Các bước đó sẽ cấu thành giá cho sản phẩm trang sức quý được gia công ra.
Nổi bật của nghề kim hoàn rất hà khắc, bởi nghề này không riêng gì đòi hỏi sự cần mẫn cần mẫn mà con đòi hỏi đôi bàn tay tài hoa khéo léo, óc sáng tạo để trổ các hoa văn, hình tiết trên các sản phẩm vàng bạc. So với các quá trình trên đều phải có các có nhu cầu kỹ thuật bắt buộc:
- Tiến hành phân kim loại để xi mạ phải bảo đảm đúng triển khai đúng kĩ thuật đáng tin cậy để bảo đảm sức mạnh và né tác hại. Khi nấu kim loại để đúc hay chế “hội”, phải cam kết và tính toán lượng kim loại để nấu thật kĩ, tùy thuộc theo có nhu cầu về độ tinh khiết nhiều hay ít, né thừa thải gây lãng phí, hao hụt.
- Khi dùng kim loại quý, điều quan trọng là né các chất liệu khác (không tọa lạc trong tính toán) hòa lẫn vào kim loại và hợp kim.
- Có nhu cầu về độ nhẵn bóng được nêu ra là không hề nhỏ, ngay từ khâu gia công làm nguội, hay cắt gọt, cưa, giũa, uốn … đều phải thật kỹ càng càng để mặt phẳng kim loại không biến thành trầy xước, các các loại thiết bị như kẹp, búa, giũa … cũng cần phải có độ bóng phù hợp và đúng chuẩn mức.
- Quá trình hàn phải luôn phủ lớp trợ dung (thuốc hàn) để không làm ảnh hưởng tới các phần còn sót lại của món sản phẩm do bị biến dạng nhiệt. Ngoài ra, quy trình làm sạch các phần oxy hóa bằng dung dịch axit cũng cần phải chăm chú độ ẩm và nồng độ, né để vật bị axit hòa tan do nồng độ rất cao. Những thao tác rót, rửa phải đúng và đúng cách dán.
Ở quá trình nhúng bạc vào H2SO4 cho bạc làm nên trắng hơn:
- Quá trình làm sạch các phần oxy hóa bằng dung dịch axit, người lao động phải rất chăm chú tới độ ẩm và nồng độ, né để bạc bị axit hòa tan do nồng độ rất cao.
- Acid sôi sẽ giải phóng hơi ni-tơ, đấy là loại khí rất tác hại và ô nhiễm nếu như với sức mạnh và các đồ đạc trong xưởng. Người lao động cần tinh nhuệ nhất kim loại ở Vị trí được thông gió cực tốt, dùng mặt nạ thở và găng tay nổi biệt để bảo đảm đáng tin cậy lao động.
Dự án công trình di sản truyền thống cổ truyền làng nghề Huệ Lai – Phù Ủng
Đền thờ Phạm Ngũ Lão
Trong làng có hệ thống di tích lịch sử lịch sử – văn hoá đền Phù Ủng. Chính là Vị trí thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão, người có công lao lớn nếu như với dân làng và giang sơn. Khu di tích lịch sử đền Phù Ủng gồm nhiều dự án công trình phong cách xây dựng có giá thành lịch sử và thẩm mỹ:
Đền thờ Phạm Ngũ Lão, đền Mẫu (thờ mẹ Phạm Ngũ Lão), lăng Phạm Tiên Công (thờ cha Phạm Ngũ Lão), lăng Vũ Hồng Lượng, chùa Cảm Ân, Phủ Chúa, Khuê Văn Những… và nhiều cảnh sắc phụ cận khác có ảnh hưởng tới cuộc sống và công danh sự nghiệp của Tướng quân Phạm Ngũ Lão. Năm 1988, đền được công nhận là di tích lịch sử lịch sử – văn hoá cấp đất nước. Chính là niềm tự hào của dân làng Phù Ủng bao dòng đời nay.
Khu di tích lịch sử Phù Ủng là một quần thể phong cách xây dựng có mô hình rộng lớn, bao gồm phần đây là đền thờ Phạm Ngũ Lão và nhiều dự án công trình phong cách xây dựng phụ trợ hợp thành. Di tích có vị trí phân bổ rải rác, đan xen với khu người dân và dọc theo trục đường của làng.
Theo thuyết phong thủy, cụm di tích lịch sử đền Phù Ủng tọa lạc trên khu đất đầu rồng (dân gian tương truyền: đền tọa lạc cạnh con sông Cửu Yên uốn lượn như một con rồng uốn khúc, mà đầu rồng là khu đất dựng đền).
Đền Ủng tọa lạc ở ở vị trí chính giữa của làng, thoáng mát, thoáng rộng với các tán cây cổ thụ, phối hợp với chùa, phủ, lăng tẩm, ao Chạ, ao Tầm Sét, giếng Ngọc, mô Gò… tạo thành cụm di tích lịch sử ảnh hưởng tới sự việc thờ phụng Tướng quân Phạm Ngũ Lão. Ở chỗ này có sự xen giữa truyền thống cổ truyền và hiện đại, giữa các kiểu phong cách xây dựng phong phú tính chất phóng đãng ở ở vị trí chính giữa của làng. càng tô thêm nét đẹp cảnh sắc và di tích lịch sử lịch sử văn hóa truyền thống cổ truyền làng Phù Ủng.
Lăng Phạm Tiên Công
Phương pháp đền thờ Phạm Ngũ Lão khoảng 100m về hướng nam là lăng mộ cụ Phạm Tiên Công (thân sinh Phạm Ngũ Lão). Lăng xây theo kiểu hình kiệu long đình có tắc môn, cột đồng trụ và hai tâm môn hai bên, bao vây thềm lát đá xanh. Sau lăng là mộ xây tròn. Tiếp sau là hậu bành – Vị trí thờ cúng tổ tiên ông bà. Tương truyền, trước mặt lăng xưa kia có 7 mô đất tọa lạc rải rác tạo thành chùm thất tinh (các cụ nói đấy là Vị trí rèn luyện võ nghệ của Phạm Ngũ Lão) hôm nay 7 mô đất này đã không còn nữa.
Đền Mẫu (Đền Nhũ Mẫu)
Đền Mẫu thờ mẹ Phạm Ngũ Lão, tọa lạc phía ở bên phải trước cổng đền Ủng (bên kia đường Cán Cờ). Ngôi đền có phong cách xây dựng thời Nguyễn, ba gian Tiền tế, hai gian Hậu cung, trong đền có tượng mẹ của tướng quân Phạm Ngũ Lão được tạc được làm bằng gỗ. Ngoài ra, còn sinh tồn bốn pho tượng người hầu bằng đá lấy từ bên ải Chi Lăng (TP Lạng Sơn).
Chùa Cảm Ân và đền thờ công chúa Tĩnh Huệ
Từ khu đền ngoài, theo đường làng đi khoảng 300m về hướng phía đông là tới khu chùa Cảm Ân và đền thờ công chúa Tĩnh Huệ – con gái Phạm Ngũ Lão.
Tam quan chùa Cảm Ân được xây theo kiểu phong cách xây dựng chồng diêm hai tầng tám mái, lợp ngói ta với tám góc đao cong lên thanh thoát nhẹ dịu.
Lăng Vũ Hồng Lượng
Tọa lạc trong quần thể di tích lịch sử đền Phù Ủng phải nói tới dự án công trình thẩm mỹ điêu khắc đá tiêu biểu thời Lê (thế kỷ XVII), đó đây là lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng. Lăng thành lập theo như hình chữ nhật, chất liệu bằng đá xanh. Những tác phẩm bày diễn trang trí ở đây gồm nhiều danh mục đa dạng và phong phú và phong phú.
Nổi bật có 4 pho tượng đá mô tả văn võ thành 2 cặp đặt 2 bên lăng, mỗi cặp được chạm nổi cùng chung một phiến đá có đường nét thăng bằng sinh động, ẩn chứa cái lanh lợi, hóm hỉnh của dân gian. Những bức phù điêu chạm nổi tứ linh tứ quý, chim thú, hoa lá của các nghệ nhân đương thời.
Chùa Tứ Ân
Là một ngôi chùa tọa lạc ở thôn Kim Lũ, ngay kề bên nhà Văn hóa truyền thống cổ truyền thôn Kim Lũ, rất có khả năng coi đấy là ở vị trí chính giữa của thôn.
Di sản phi vật thể làng nghề Huệ Lai – Phù Ủng
Hưng Yên – Phố Hiến có cảnh sắc thiên nhiên kỳ thú với Nguyệt Hồ thơ mộng vang bóng thuở nào, ôm trong lòng và bao vây nó là một mạng lưới chen chúc các điểm du lịch phố cổ và làng cổ của xứ nhãn lồng, có truyền thống cổ truyền đánh giặc của du kích Hoàng Ngân và truyền thống cổ truyền văn hoá của Phố Hiến xưa – “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Đây thật là một vùng quê sơn thuỷ hữu tình, địa linh nhân kiệt.
Về thăm Phù Ủng – quê nhà đất của Tướng quân Phạm Ngũ Lão – một anh chàng có sức mạnh và nghị lực phi thường, đã về quê ngày đêm rèn luyện võ nghệ chờ ngày triều đình tuyển chọn quân cấm vệ. Chuyện kể rằng: Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khuya, trên bãi cỏ ven làng không mấy lúc vắng mặt Phạm Ngũ Lão. Từ môn cưỡi con Ngữa bắn cung tới côn, quyền, roi, kiếm, Phạm Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện.
Chỉ độc tôn môn cắp giáo nhảy qua tường hào, Phạm Ngũ Lão luyện mãi vẫn chưa ưng ý. Được dân làng bổ trợ, Phạm Ngũ Lão đắp một chiếc gò đất ở ven làng để tập nhảy. Riêng việc đắp gò cũng chính là một việc để Phạm Ngũ Lão tập mang nặng. Cứ ba sọt đất đầy ăm ắp, Phạm Ngũ Lão nhấc bổng lên vai bước thoăn thoắt từ thùng đầu lên đỉnh gò, trong khi tất cả chúng ta khác, người khỏe nhất cũng chỉ mang được hai sọt.
Thời gian sau, một gò đất lớn đã nổi dậy lù lù ở ven làng. Ngày nào cũng thế, từ sáng sớm, Phạm Ngũ Lão đã có nhiều mặt ở chân gò, dần dần chạy lên đỉnh rồi lại nhảy xuống, hoặc chống sào nhảy qua gò. Sau mấy ngày rèn luyện Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách thức đơn giản dễ dàng. Nhưng không tạm ngừng ở đó, Phạm Ngũ Lão mặc quần dài rồi cho đất vào ống quần buộc túm lại để tập nhảy.
Trong mấy ngày đầu, đôi bàn chân của Phạm Ngũ Lão như bị gắn chặt xuống đất. Nhưng khổ cực không đẩy lùi được quyết tâm của Phạm Ngũ Lão. Từ ngạc nhiên, phức tạp tới thân thuộc, lượng đất tăng dần cho tới ngày hai ống quần căng đầy, và khi ấy gò đất cũng mòn vì gót chân của Phạm Ngũ Lão.
Tới khi bỏ đất ra, Phạm Ngũ Lão cũng thấy người lâng lâng nhẹ dịu, nhảy qua gò như phượng hoàng nhảy qua đỉnh núi. Giờ đây bức tường thành sừng sững trong sân trường Giảng Võ không còn gì đáng sợ với Phạm Ngũ Lão nữa.
Ngày nay, bao vây làng vẫn còn dấu vết của các gò đất gọi là mô Đai, mô Quả Thừng, mô Thần Đồng… là công dụng khổ luyện “đắp gò tập nhảy” của anh chàng họ Phạm. Cùng theo đó, các mô đất đó cũng chính là công lao đắp đê ngăn sông, đắp đất lập làng của các người anh hùng Phạm Ngũ Lão và dân làng Phù Ủng.
Cuộc đấu tranh với thiên nhiên giới thiệu tiếp tục, từ dòng đời này sang dòng đời khác đã tôi luyện nên phẩm chất cực tốt đẹp cho con người Phù Ủng đức tính cần mẫn, cần mẫn giàu nghị lực, lanh lợi, sáng tạo, lòng yêu quê hương giang sơn, mà biểu tượng Phạm Ngũ Lão là biểu tượng cho con người Phù Ủng.
Danh nhân: Trong các Đình, chùa/ Cán bộ Văn hóa truyền thống cổ truyền xã
Phù Ủng không riêng gì là đất võ mà còn là đất văn. Trong làng còn lưu giữ 4 tấm bia đá lớn ghi danh xưng và công danh sự nghiệp các bậc đỗ đại khoa trong làng từ thời Lê tới thời Nguyễn.
Vũ Vinh Tiến: sinh vào năm Canh Thân, Vĩnh Tộ đầu tuần (1620) đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640) khi mới 21 tuổi, làm quan tới chức Tự khanh, tước Bá, khi mất được truy Tặng Kèm tước Tử. Khoa này còn có 6000 sĩ tử tham dự cuộc thi, chỉ lấy đỗ 22 tiến sĩ, có nghĩa là 273 người tham dự cuộc thi thì mới có thể lấy đỗ 1 người, nhưng Vinh Tiến vẫn trúng tuyển.
Phạm Trứ: sinh vào năm Giáp Dần, Cảnh Thịnh đầu tuần (1794), đỗ Đình Nguyên khoa Nhâm Thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 (1832). Khoa này lấy đỗ 8 tiến sĩ, 3 phó bảng, do không lấy Tam Khôi, nên Phạm Trứ tuy đỗ đầu nhưng chỉ được xếp ở hàng Hoàng Giáp, thế cũng chính là một vinh dự cho truyền thống cổ truyền hiếu học của một làng quê.
Lễ hội
Cuộc sống văn hoá dân gian của dân làng Phù Ủng khá đa dạng và phong phú. Bên cạnh kho báu các câu ca dao, tục ngữ nói tới cuộc đời lao động chế tạo, về tình làng nghĩa xóm,…. làng Phù Ủng còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão, một vị tướng tài ba dưới đời Trần, một vị thánh trong lòng nhân dân.
Thời Nguyễn có cử nhân Vũ Huy Thịnh biên soạn cuốn Ngọc phả của Trần triều Điện soái Phạm Ngũ Lão, được phong là Phúc thần Chiêu cảm đại vương dựa theo truyền thuyết trong vùng. Cuốn Ngọc phả này hiện được lưu giữ tại đền thờ Phạm Ngũ Lão ở Phù Ủng – Ân Thi – Hưng Yên và được Thư viện Hán Nôm dịch.
Lễ hội đền Phù Ủng là vận động văn hóa truyền thống cổ truyền lớn nhất trong năm của làng, được tổ chức hàng năm để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc Phạm Ngũ Lão. Ngoài ra còn sinh tồn lễ Kỳ An (Kỳ Yên) mà cư dân làng Phù Ủng quen gọi là Kỳ Anh. Những bậc bô lão trong làng cho thấy thêm: Lễ đó được triển khai ở chùa làng nhằm mục tiêu mục tiêu cầu mong sự bình yên cho dân, làng Phù Ủng và cùng theo đó triển khai 1 phần ở đình để tế thánh và chúc thọ các bậc cao niên trong làng.
Ẩm thực ăn uống, sản vật nổi trội
Là một ngôi làng Bắc Bộ truyền thống cổ truyền, làng Phù Ủng có các nét sinh hoạt văn hoá vật chất hệt nhau với nhiều làng quê khác trên mảnh đất nền Ân Thi, Hưng Yên kể riêng và đồng bằng ven biển Bắc Bộ kết luận, được biểu thị qua nếp ăn, ở, mặc, đi lại…
Do trường hợp bỗng nhiên, cách thức chế tạo quy cách bữa tiệc của các cư dân làng Phù Ủng cũng tương tự bữa tiệc truyền thống cổ truyền của dân tộc “Cơm + Rau + Cá”. Hưng Yên là tỉnh độc tôn ở đồng bằng ven biển Bắc Bộ không còn núi, không còn biển, cho nên nhân tố “rừng”, “biển” rất mờ nhạt trong mỗi bữa tiệc của các cư dân. Ngược lại, nhân tố “vườn”, ao hồ sông nước lại biểu thị trông rất rõ ràng như gà, lợn, vịt, ngan, tôm, cua, cá…
Gần giống các làng quê khác ở đồng bằng ven biển Bắc Bộ, trên mâm cỗ thờ cúng tổ tiên ông bà ngày Tết được bày biện đa dạng và phong phú hơn mọi hôm, và không bao giờ thiếu đi một cái bánh trưng truyền thống cổ truyền mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống cổ truyền Việt.
Nghệ thuật màn trình diễn
Những mô hình diễn xướng dân gian đa dạng và phong phú vừa làm sinh động thêm cuộc sống đời thường của các cư dân, vừa là phần đã hết thiếu trong phần hội của hội làng, với thẩm mỹ hát trống quân đã biến thành một nét đẹp văn hóa truyền thống cổ truyền lâu năm.
Những phong tục, tập quán tiêu biểu (cưới hỏi, lễ hội, hương ước, mối quan hệ dòng tộc, láng giềng…)
Cuộc sống văn hoá tâm linh của các người làng Phù Ủng khá đa dạng và phong phú và khó khăn. Ở chỗ này ngoài tín ngưỡng thờ gia tiên (đạo ông bà), cư dân còn thờ Phật, thờ Thần, thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng Làng tại đền, chùa, điện. Tín ngưỡng thờ gia tiên được biểu thị trong mỗi hộ dân cư đều phải có bàn thờ tổ tiên tổ tiên được đặt ở Vị trí long trọng nhất, thật sạch sẽ nhất, thường ở gian ở trung tâm.
Ngoài ra, tín ngưỡng thờ gia tiên còn được biểu thị chi tiết trong việc thờ hộ dân cư Phạm Ngũ Lão trong khu di tích lịch sử đền Phù Ủng. Tại gian hậu cung đền thờ công chúa Tĩnh Huệ (con gái Phạm Ngũ Lão) đặt khám thờ và tượng Trần triều Hưng Đạo Vương (bố vk Phạm Ngũ Lão). Hai bên tả hữu là khám thờ và tượng quận chúa Anh Nguyên (vk của Phạm Ngũ Lão) cùng công chúa Thiên Thành (hoàng hậu vua Trần Nhân Tông).
Trong làng có chùa Cảm Ân (hay chùa Bảo Sơn) là Vị trí thờ Phật. Bên hữu chùa Cảm Ân là phủ điện thờ Mẫu. Tọa lạc ở ở vị trí chính giữa của làng là ngôi đền thờ Điện suý thượng Tướng quân Phạm Ngũ Lão, được xem là vị Thành Hoàng làng, Đức Thánh Phạm của toàn cầu.
Điều nổi biệt ở đấy là phong tục tập quán của các người làng Phù Ủng vừa mang đậm nét văn hoá của các làng Việt cổ ở đồng bằng ven biển Bắc Bộ nhưng cũng luôn tồn tại các nét riêng tạo ra các giá thành văn hoá độc lạ của làng Phù Ủng.
Tục trọng lão: Gần giống bao làng quê thuần nông khác ở đồng bằng ven biển Bắc Bộ, kính trọng người già ở làng Phù Ủng đã biến thành nếp sống đạo đức, tinh thần, thành văn hoá ứng xử mang ý nghĩa mang tính nhân văn tinh xảo, thành truyền thống cổ truyền đáng tự hào của dân làng.
Ở chỗ này, người già được tôn trọng 1 mặt vì thuần phong mỹ tục “Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ”. Mặt còn lại, những người dân già trong làng đây là kho kinh nghiệm đa dạng và phong phú trong cuộc đời về cách thức ứng xử giữa cá thể với toàn cầu, về kỹ thuật canh tác… truyền dạy các bài học kinh nghiệm quý giá nếu như với các dòng đời con cái hiên giờ.
Văn bản cổ, thư tịch, sắc phong, ghi chép trên bia đá, chữ trên cổng nhà, cổng làng
Di sản Hán Nôm: các dự án công trình cổ của làng Phù Ủng đều phải có minh văn bằng chữ Hán, chữ Nôm. Đây đều là các trang sử chân thật, các lời chân thành và xúc động của các người xưa ca tụng di tích lịch sử và nhân danh ở đây.
Chuyên Mục: Review Hưng Yên
Nguồn Blog Review Du Lịch: https://bietthungoctrai.vn/ Làng nghề chạm bạc Huệ Lai – Cội nguồn của các bộ trang sức quý bạc