Review Tham Quan Đền Cờn Nghệ An ở đâu,lịch sử,kiến trúc 2022
Đền Cờn tọa lạc bên dòng sông Mai, thuộc địa phận làng Phương Cần, phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Lễ hội đền Cờn kéo dài từ 15 đến 20 tháng Giêng hàng năm, chính hội là ngày 21 tháng Giêng.
Người Nghệ An thường có câu “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Mã, tứ Trưng”, đây này là câu nói chỉ bốn ngôi đền thiêng ở Nghệ An, trong đó đền Cờn được xếp vào loại thiêng nhất. Chính là ngôi đền có nền tảng gốc rễ lịch sử nhiều năm với nhiều truyền thuyết được truyền miệng đến ngày nay.
Đền Cờn Nghệ An ở đâu?
Đền Cờn (tên tiếng Anh là Temple Chin Child) còn sống sót tên gọi khác là đền Mẫu Cờn Nghệ An nằm trên gò Diệc, gần với cửa biển Lạch Cờn của làng Phương Cần, phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.
Được ca tụng là ngôi đền linh thiêng bậc nhất trong các đền chùa ở Nghệ An, đền Cờn năm 1993 được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Đền Cờn Nghệ An thờ ai?
Đền Cờn được xây dựng từ thời nhà Trần, là nơi thờ tự Tứ vị Thánh Nương. Tứ vị Thánh Nương bao gồm: Thái hậu Dương Nguyệt Quả, bà nhũ mẫu và hai nàng công chúa. Hai vị công chúa có tên là Triệu Nguyệt Khiêu và Triệu Nguyệt Hương.
Kiến trúc Đền Cờn Nghệ An
Nằm cận biển, sát núi, trên gò Diệc, dưới bóng cây cổ thụ, hướng mặt ra dòng Mai Giang thơ mộng, Đền mẫu Cờn Nghệ An có phong thủy đẹp, thế đứng giống đầu chim phượng hoàng với hai cánh là hai đồi cát giăng dài phía sau đền, hai mắt phượng là giếng Đò và giếng Đình nằm trên hai ngọn đồi này.
Đền Cờn được xây dựng từ thời Trần, cải tiến vượt bậc nâng tầm phát triển loại hình vào thời Lê, trùng tu nhiều ở thời Nguyễn, do vậy mang đậm quý phái kiến trúc cuối thời Lê đầu thời Nguyễn. Trải qua thời gian và những biến cố, ngôi đền hiện chỉ còn sót lại tòa Nghi môn, Chính điện, Trung điện, Hạ điện và tòa ca vũ.
– Qua cổng đền vào sân, bước lên 10 bậc đá sẽ tới tòa Nghi môn. Chính là một tòa nhà hình chữ Công bề thế, gồm 2 tầng, 8 mái, liền tiếp phía sau là Chính điện, Trung điện và Hạ điện. Riêng tòa ca vũ với 3 gian chính và 2 gian phụ cũng to rộng và có đề tài trang trí đa dạng.
Đền Cờn hội tụ nhiều nét rực rỡ tỏa nắng, từ vật liệu xây dựng cho đến các đường nét chạm khắc, tạo hình… dấu hiệu tay nghề điêu luyện của các người xưa. Phía phía trong đền còn lưu giữ 142 hiện vật quý giá, gồm đa dạng mẫu mã bằng sắc, câu đối, đại tự, đồ tế khí (kiệu, tàn lọng, đồ ngà, đồng…), bia đá 2 mặt (cao 1.6m, rộng 1.2m, được dựng năm 1665), chuông đồng đúc năm Cảnh Hưng (1752) nặng 300 kg, cùng 28 pho tượng đá và nhiều tượng gỗ thời Lê…
Từ truyền thuyết đến lịch sử Đền Cờn
Đền Cờn thờ Tứ vị Thánh Nương, một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ cập ở Nghệ An và Thanh Hóa. Về tục thờ Tứ vị Thánh Nương ở đây có nhiều truyền thuyết về các Bà, mặc dù thế phố biến có một truyền thuyết như sau: “Những Thánh nương là bố mẹ con Công chúa nước Nam Tống làThái hậu Dương Nguyệt Quả, hai Công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu.
Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1229), quân Nguyên đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu trung thần nhà Nam Tống đưa vua Đế Bính, gia quyến cùng binh lực hơn 800 người lên thuyền ra biển chạy trốn, bị quân Nguyên truy đuổi lại gặp sóng to gió lớn, vua tôi Nam Tống chết chìm ở biển Đông. Thi thể 3 mẹ con Công chúa trôi dạt vào cửa Tráp (cửa Càn).
Dân làng Càn cảm nhận thấy thi thể những phái nữ chết đuối nhưng mặt mũi hồng tươi, xiêm y quý tộc, đặc biệt tỏa ra mừi hương như lan như quế nên lấy làm lạ, bèn chôn cất và lập miếu thờ, tiếp tiếp sau đó mỗi khi ra khơi đến cầu khẩn đều cảm nhận thấy linh nghiệm”(1).
Từ truyền thuyết đó, đối chiếu với lịch sử Việt Nam cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép về sự kiện này như sau “Kỷ Mão Thiên Bảo năm thứ 1 (1279), quân Nguyên đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, quân Tống thua, Tả thừa Tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết; Hậu cung và các quan chết theo vô số. Qua 7 ngày xác nổi lên mặt biển đến hơn 10 vạn người. Xác vua Tống cũng ở đấy”(2).
Không những được dựng nên từ những truyền thuyết, ngôi đền có lịch sử hình thành được các sử gia ghi chép lại trong những bộ sử lớn như sau. Theo Đại Việt sử ký toàn thư đền Cờn được xây dựng vào khoảng thời gian 1312, một năm sau khi hoàng đế Trần Anh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành (1311). Trong chuyến hành quân, trên đường đi nhà vua đã dừng đoàn chiến thuyền tại cửa Càn (nay là cửa Cờn).
Nửa đêm chiêm bao cảm nhận thấy có thần nữ khóc và nói: “thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp sóng to chết đuối trôi dạt đến đây, thượng đế phong cho làm thần biển đã lâu, nay cảm nhận thấy bệ hạ đem quân đi thiếp xin giúp đỡ lập công. Khi thức dậy vua cho gọi các cố lão ở đấy hỏi sự thực, ban tế một tuần lễ rồi đi, thì cảm nhận thấy biển không nổi sóng, tiến thẳng đến thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm đem về. Tới lúc này sai hữu ty lập đền, tuế thờ cúng tế”(3).
Sau khi chiến thắng quay lại nhằm mục tiêu mục đích ghi nhớ công đức của các vị thánh nương nên “năm 1312 vua sai lập đền thờ ở cửa biển Cần Hải (nguyên trước là Càn Hải vì tránh tên húy nên đổi lại thành Cần Hải) Cửa Cờn ngày nay”(4).
Lễ hội truyền thống cổ truyền truyền thống cổ truyền Đền Cờn
Theo Kho tàng lễ hội truyền thống cổ truyền Việt Nam, Hội chính đền Cờn diễn ra từ ngày 15 đến 21 tháng Giêng, mặc dù thế ngày nay chính hội diễn ra vào ngày 21 tháng Giêng. Tuy nhiên, công cuộc chuẩn bị tập duyệt đã được nhân dân triển khai từ những ngày thời điểm vào đầu tháng Giêng.
Ngày mồng 6 tháng Giêng làng triển khai cuộc tế xuân trước tiên để chuẩn bị cho vào hội chính thức. Cuộc tế diễn ra rất linh đình với đồ tế là “lợn bồi trâu” nghĩa là 5 con trâu thịt bỏ ruột, 5 con lợn cũng bỏ ruột được đặt trên lưng 5 con trâu. Sáng ngày 7 tháng Giêng, triển khai tế bánh dầy, bánh được làm to, cao, hết vô số gạo. Mỗi giáp đều phải làm bốn chiếc “bánh giống”, bánh này được đem ra đền thờ các vị thánh, tiếp tiếp sau đó chia cho ông trưởng giáp 2 chiếc, 2 chiếc còn sót lại đem chia cho bà con trong giáp.
Sau hai ngày tế bánh là thời gian của các trai làng đi mừng, nghĩa là chia thành từng nhóm đi quyên tiền tài, vật chất của bà con trong làng, không khí sôi nổi của lễ hội kéo dài cho đến ngày rằm tháng Giêng. Ngày 15 tháng giêng làm lễ “nghiềm quân”, nghĩa là rước toàn bộ đồ thờ cúng như kiệu, tàn, lọng, chấp kích… ra để kiểm điểm lại xem thiếu hụt, hỏng như thế nào.
Mọi thứ được bày biện, lắp ráp, lau chùi sáng hẳn, cờ quạt được treo lên, xếp theo hàng lối rực rỡ cả một khu đền. Ngày 16 tháng Giêng người dân tổ chức rước một kiệu có 4 tàn vàng che, lên chùa thăm sư ông, tượng trưng như thánh lên chùa vấn an Phật. Ngày 17 tháng Giêng rước một kiệu, được các nữ đảm trách có tám tàn che và các đồ thờ khác đặt ở ngoài chợ.
Trong suốt ba ngày ba đêm 17, 18, 19 tháng Giêng làng tổ chức hát bội không ít vui, từng ngày kiệu được một hoặc hai phường bán hàng hoá ở chợ ủng hộ hương, đăng, trầu, rượu. Thậm chí họ còn có chức năng lo cả tối vui của xuyên xuyên suốt ngày hôm đó, bởi vậy vào những hiện tại cả nơi đặt chợ là một sân khấu hội không hề nhỏ và đông vui không kể xiết.
Toàn bộ diễn ra vui mắt cho đến ngày 20 tháng Giêng. Những kiệu cùng nghi trượng được rước tập trung vào ngày 20 tháng Giêng, chờ ở đây để chuẩn bị chạy Ói, đấy là một hình thức trượng trưng để diễn đạt lại sự tích “hai làng tranh nhau bài vị”.
Sáng ngày 21 tháng Giêng, mọi thủ tục đã triển khai xong. Trong đền tiếp tục tế lễ. Những trò vui ngày ngày hôm trước diễn ra chủ yếu ngoài chợ thì nay dồn vào đền, mà đặc thù là đua thuyền trên dòng sông Mai trước đền. Ngoài đua thuyền còn sống sót những cuộc chơi khác như đánh đu, đấu vật, cờ người…
Lễ hội kết thúc trong không khí tưng bừng của mùa xuân, báo hiệu một năm mới an lành niềm sung sướng, cầu cho một năm ra khơi bình an với tôm cá đầy khoang.
Chuyên Mục: Review Nghệ An
Nguồn Blog Review Du Lịch: https://bietthungoctrai.vn/ Đền Cờn từ truyền thuyết đến lịch sử và lễ hội truyền thống cổ truyền truyền thống cổ truyền